Rõ nhất là tài nguyên đất. Nhiều khu, cụm công nghiệp đã ra đời hàng chục năm nay nhưng tỷ lệ “lấp đầy” không quá 30% – 40%, hậu quả để lại là hàng chục ngàn hécta hoang hóa không được sử dụng. 10 năm qua, hàng chục vạn hécta đất trồng lúa nước đã bị chuyển đổi mục đích sử dụng thành đất thổ cư, đất xây dựng… nhưng chẳng thấy có mấy nhà đất hình thành. Đó là số liệu do PGS-TS Phan Đăng Tuất cung cấp.
Ông Tuất cho rằng, không phải địa phương nào cũng có những điều kiện thích hợp để phát triển công nghiệp; chính vì vậy, sự tập trung công nghiệp thái quá tại một số điểm thuộc vùng Đông Nam bộ đã tạo ra nhiều vấn đề nóng về môi trường và xã hội. Đặc biệt, do thiếu chính sách sử dụng quỹ đất hợp lý cho công nghiệp nên đất châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long đã không được sử dụng hợp lý, nhất là ở vùng đồng bằng sông Hồng. Trong khi đó, dải đất ven biển miền Trung được coi là thích hợp hơn để phát triển công nghiệp lại chưa được phát huy do tầm nhìn ngắn hạn của cả cơ quan quản lý và nhà đầu tư.
Vẫn TS Tuất nhấn mạnh, việc khai thác và sử dụng khoáng sản với công nghệ thấp đã không những lãng phí tài nguyên mà còn gây ô nhiễm môi trường rất lớn.
Từ một góc nhìn khác, TS Nguyễn Văn Tài (Bộ Tài nguyên và Môi trường) chỉ ra rằng, tiềm năng to lớn của thị trường các sản phẩm thân thiện với môi trường ở Việt Nam còn đang bị bỏ ngỏ, mặc dù người tiêu dùng ở các nước phát triển đặc biệt “nhạy cảm” với vấn đề này.
“Ở Việt Nam hiện nay chưa có sản phẩm nào được công bố áp dụng nhãn sinh thái. Việt Nam cũng chưa có quy định bắt buộc hay tiền lệ dán nhãn sinh thái cho sản phẩm hàng hóa, mặc dù đây là xu thế mạnh mẽ của các doanh nghiệp trên toàn cầu để quảng bá cho các nỗ lực bảo vệ môi trường của doanh nghiệp mình”, ông Tài bình luận.
Ngoài ra, không nghi ngờ gì nữa, sản xuất sạch hơn (SXSH) là quy trình đem lại lợi ích toàn diện cho bản thân DN và xã hội, song nhận thức về vấn đề này cũng rất hạn chế: cả nước chỉ có khoảng 200 DN – chủ yếu là DN lớn – áp dụng. Đại đa số trong hơn 400.000 DN nhỏ và vừa vẫn đang “bỏ qua” vấn đề này.
Theo ông Nguyễn Văn Tài, ở đây có những lý do khách quan là nhiều DN không có vốn ban đầu để đầu tư cho SXSH, trong khi việc tiếp cận các nguồn tài chính còn gặp nhiều thủ tục phiền hà; khung chính sách hiện hành chưa đủ khuyến khích DN đầu tư. Đặc biệt, cả nước chỉ có 150 người được đào tạo chuyên sâu về SXSH, trong đó chỉ có khoảng 20% thực sự là những chuyên gia.
Trước mắt, Tổng cục Môi trường đang xây dựng chương trình nhãn sinh thái, sẽ được áp dụng thí điểm từ năm 2009 và năm 2011 sẽ mở rộng trên phạm vi toàn quốc. Các doanh nghiệp Việt Nam liệu có nhanh nhạy tận dụng chương trình này để biến tiềm năng của ngành công nghiệp môi trường còn non trẻ trở thành những lợi ích kinh tế thiết thực?
Bảo Vân
No comments:
Post a Comment